Nồng độ kẽm là gì? Các công bố khoa học về Nồng độ kẽm

Nồng độ kẽm (Zinc concentration) là số lượng kẽm có trong một lượng chất hay mẫu được xác định. Nồng độ kẽm thường được thể hiện bằng đơn vị phổ biến là miligra...

Nồng độ kẽm (Zinc concentration) là số lượng kẽm có trong một lượng chất hay mẫu được xác định. Nồng độ kẽm thường được thể hiện bằng đơn vị phổ biến là miligram/lít (mg/L) hoặc microgram/g (µg/g). Nồng độ kẽm thường được đo và xác định trong nhiều lĩnh vực, như y học, hoá học, và ngành công nghiệp.
Nồng độ kẽm là số lượng kẽm có trong một khối lượng hoặc thể tích cụ thể của mẫu. Để xác định nồng độ kẽm, một số phương pháp phân tích hoá học có thể được sử dụng, bao gồm:

1. Phương pháp hấp thụ nguyên tử (Atomic Absorption Spectroscopy - AAS): Đây là phương pháp phổ điện tử hấp thụ nguyên tử để xác định nồng độ kẽm. Kẽm sẽ hấp thụ ánh sáng có bước sóng xác định và dựa trên sự hấp thụ này, nồng độ kẽm có thể được xác định.

2. Phương pháp phân tử động (Dynamic light scattering - DLS): Phương pháp này dựa trên việc đo quang phổ của ánh sáng thất thoát trong mẫu. Ánh sáng sẽ gặp khó khăn trong việc di chuyển trong một môi trường có chứa kẽm, và từ đó, nồng độ kẽm có thể được xác định.

3. Phương pháp điện hoá (Electrochemical method): Phương pháp này dựa trên sự tương tác giữa các điện cực và các chất cần được phân tích. Đo điện thế và dòng điện sẽ được sử dụng để xác định nồng độ kẽm.

Nồng độ kẽm thường được quan tâm và kiểm tra trong đất, nước, thực phẩm và dinh dưỡng. Trong cơ thể con người, kẽm là một khoáng chất cần thiết và tham gia vào nhiều quá trình sinh hóa quan trọng, bao gồm chức năng miễn dịch, quá trình chuyển hóa, tăng trưởng tế bào và phát triển não bộ. Do đó, việc kiểm tra nồng độ kẽm trong cơ thể cũng rất quan trọng để đảm bảo sức khỏe.
Để xác định nồng độ kẽm trong một mẫu, có một số phương pháp phân tích được sử dụng, bao gồm:

1. Phân tích hoá học: Phương pháp này thường liên quan đến sử dụng chất tạo màu hoặc chất tạo phức để tạo ra một phản ứng màu có liên quan đến nồng độ kẽm. Sau đó, nồng độ kẽm sẽ được xác định thông qua đo độ hấp thụ hoặc đo độ tương phản của mẫu.

2. Phương pháp điện hoá: Nồng độ kẽm có thể được xác định bằng cách sử dụng các kỹ thuật điện hoá như phổ phân cực, điện phân hoặc phương pháp điện cực từ đơn giản đến phức tạp hơn như voltammetry hoặc coulometry.

3. Phân tích quang phổ phân tử: Phương pháp này sử dụng quang phổ phân tử để xác định nồng độ kẽm trong mẫu. Ánh sáng đi qua mẫu và tương tác với các phân tử kẽm trong đó. Từ sự phân rã và hấp thụ ánh sáng, nồng độ kẽm trong mẫu có thể được xác định.

Các phương pháp phân tích kẽm thường được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, y học, sản xuất công nghiệp và kiểm tra chất lượng. Quan trọng nhất là trong môi trường y tế, bởi vì kẽm có vai trò quan trọng trong sự phát triển và hoạt động của cơ thể con người.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nồng độ kẽm":

Nồng Độ Manganese, Đồng Và Kẽm Trong Huyết Thanh Và Tế Bào Máu Đóng Gói Trong Giai Đoạn Viêm Gan Cấp, Viêm Gan Mạn Tính Và Xơ Gan Hậu Viêm Gan Dịch bởi AI
Clinical Chemistry - Tập 20 Số 9 - Trang 1141-1145 - 1974
Tóm Tắt

Đã xác định nồng độ của manganese, đồng và kẽm trong huyết thanh và tế bào máu đóng gói ở nhóm chứng bình thường, bệnh nhân viêm gan cấp tính và mãn tính (nhất thời hoặc tập kích), và các trường hợp xơ gan sau hoại tử. Trong giai đoạn hoạt động của viêm gan cấp tính, nồng độ manganese trong huyết thanh luôn tăng cao; sự khác biệt giữa giá trị trung bình và bình thường là rất đáng kể, P < 0.001. Nồng độ trung bình của đồng trong huyết thanh cũng tăng đáng kể (P < 0.01). Các nồng độ trở lại bình thường trong giai đoạn suy giảm. Trong viêm gan mãn tính tập kích và xơ gan hậu viêm gan, nồng độ trung bình của manganese trong huyết thanh tăng, P < 0.001, trong khi nồng độ kẽm trong huyết thanh thường xuyên giảm. Có một sự tương quan lạc quan cao độ (P < 0.001) giữa nồng độ manganese trong huyết thanh và hoạt động của aminotransferases trong huyết thanh, ở các đối tượng với viêm gan cấp hay mãn tính hoặc xơ gan hậu hoại tử.

#manganese #đồng #kẽm #viêm gan cấp tính #viêm gan mãn tính #xơ gan hậu viêm gan #tăng nồng độ #aminotransferases.
Bổ sung công thức thích ứng với lactoferrin từ bò. 2. Tác động đến nồng độ sắt huyết thanh, ferritin và kẽm Dịch bởi AI
Wiley - Tập 81 Số 6-7 - Trang 475-479 - 1992

Sữa mẹ cung cấp một nguồn cung cấp excellent cho hầu hết các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ sơ sinh. Công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nên có giá trị dinh dưỡng tương đương với sữa mẹ, đặc biệt liên quan đến các chất dinh dưỡng quan trọng như sắt và các nguyên tố vi lượng khác. Công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh được bổ sung với nhiều lượng lactoferrin từ bò đã được đưa cho hai nhóm trẻ sơ sinh. Những trẻ sơ sinh này được so sánh với những trẻ nhận công thức không bổ sung và những trẻ bú mẹ. Tác động của các chế độ ăn này đến các mức hemoglobin, hematocrit, sắt huyết thanh, ferritin và kẽm đã được kiểm tra trong một khoảng thời gian nghiên cứu là 150 ngày. Tại thời điểm sinh, nồng độ sắt, hemoglobin, hematocrit và kẽm tương đương ở cả bốn nhóm cho ăn. Thực tế là nồng độ kẽm huyết thanh không bị thay đổi do sự bổ sung lactoferrin dường như loại trừ ảnh hưởng in-vivo của lactoferrin đến dinh dưỡng kẽm của trẻ sơ sinh. Mức ferritin của trẻ bú mẹ cao hơn đáng kể so với trẻ uống công thức không bổ sung ở ngày thứ 30 và ngày thứ 90. Sự khác biệt này chỉ thấy ở ngày 30, khi so sánh trẻ bú mẹ với trẻ uống công thức đã bổ sung lactoferrin. So với trẻ uống công thức, công thức bổ sung với lượng lactoferrin từ bò cao hơn đã tạo ra mức ferritin huyết thanh cao hơn đáng kể so với công thức không bổ sung ở ngày 90 và ngày 150. Những quan sát này thuận lợi cho ý tưởng rằng lactoferrin có thể tham gia vào quá trình hấp thụ sắt. Vì hiệu ứng này chỉ rõ ràng sau 90 ngày, nên cần thảo luận về việc liệu hiệu ứng này có phải là một lập luận thuyết phục cho việc bổ sung lactoferrin từ bò vào công thức trẻ sơ sinh hay không.

Xác định nồng độ kẽm, đồng, canxi trong huyết thanh và mối liên quan với lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân
Mục tiêu: Đánh giá nồng độ kẽm, đồng, canxi huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân. Xác định mối liên quan giữa nồng độ kẽm, đồng, canxi huyết thanh với lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân. Đối tượng và phương pháp: 49 bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân khám tại Bệnh viện Da liễu Trung ương thời gian từ tháng 07/2019 đến tháng 04/2020, 49 người khỏe mạnh nhóm chứng với tỉ lệ 1:1 về tuổi, giới. Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, có nhóm đối chứng. Kết quả: Nồng độ kẽm huyết thanh: 0,85 ± 0,27mg/l thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (p<0,001). Nồng độ đồng huyết thanh: 1,32 ± 0,26mg/l, tăng có ý nghĩa (p<0,001) so với nhóm chứng. Nồng độ canxi huyết thanh: 109,49 ± 11,15mg/l không khác biệt so với nhóm chứng (p>0,05). Không có mối liên quan giữa nồng độ kẽm, đồng, canxi với tuổi, giới, thời gian mắc bệnh, mức độ bệnh ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân. Kết luận: Ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân, nồng độ kẽm huyết thanh giảm, nồng độ đồng tăng, trong khi nồng độ canxi giảm không có ý nghĩa và không thấy mối liên quan giữa nồng độ các chất này với các yếu tố lâm sàng: Tuổi, giới, thời gian mắc bệnh và mức độ bệnh.
#Vảy nến mụn mủ toàn thân #đồng #kẽm #canxi
Liên quan giữa nồng độ kẽm huyết tương với bệnh cảnh lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
Mục tiêu: Mô tả biến đổi nồng độ kẽm (Zn) huyết tương và tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ Zn huyết tương với bệnh cảnh lâm sàng ở bệnh nhân (BN) nhiễm khuẩn huyết (NKH). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả được tiến hành trên 125 BN NKH điều trị tại Bệnh viện TWQĐ 108 từ tháng 11/2019 đến tháng 02/2021. Đo nồng độ Zn huyết tương tại thời điểm vào viện (Zn1) và tại thời điểm ngày 3 (Zn3) sau vào viện, ghi nhận sống sót và tử vong (TV) 30 ngày. Kết quả: Tỷ lệ thiếu Zn1 là 72,8%. Nồng độ Zn1 là 54,0 (37,15-74,4) µg/dL, nồng độ Zn3 là 68,7 (55,3-89,2) µg/dL, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,001. Nhóm có điểm SOFA < 7 điểm có nồng độ Zn1 cao hơn nhóm có điểm SOFA ≥ 7 điểm, p<0,01. Nồng độ Zn1 huyết tương giữa nhóm sốc và nhóm không sốc, giữa nhóm thở máy và nhóm không thở máy, giữa nhóm suy thận và không suy thận, giữa nhóm suy gan và không suy gan, giữa nhóm sống và nhóm TV 30 ngày không có sự khác biệt. Kết luận: Thiếu Zn1 thường gặp ở BN NKH. Nồng độ Zn1 thấp hơn Zn3. Nhóm có điểm SOFA cao hơn có nồng độ Zn1 thấp hơn. Nồng độ Zn1 giữa nhóm sống và nhóm TV 30 ngày không có sự khác biệt.
#Nhiễm khuẩn huyết #kẽm
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NỒNG ĐỘ KẼM VÀ FRUCTOSE TRONG TINH DỊCH CỦA NHỮNG BỆNH NHÂN VÔ SINH NAM KHÔNG CÓ TINH TRÙNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Để khảo sát nồng độ kẽm và fructose trong tinh dịch và tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ kẽm và fructose với pH, thể tích tinh dịch và các nội tiết tố sinh dụcở những bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 270 bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng. Kết quả cho thấy: Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 30,1 ± 5,05 tuổi. Nồng độ kẽm và fructose tinh dịch trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu lần lượt là 0,51 ± 1,76μmol/L và 1,25 ± 0,8mg/ml. Không có sự khác biệt nồng độ kẽm giữa 2 nhóm OA và NOA. Nồng độ fructose ở nhóm NOA cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm OA. Trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, thể tích tinh dịch và pH tinh dịch có mối liên quan thuận đối với fructose ở nhóm OA. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ fructose trong tinh dịch có giá trị định hướng chẩn đoán nguyên nhân không có tinh trùng do tắc nghẽn. 
#Kẽm #fructose #không có tinh trùng #vô sinh
Nghiên cứu nồng độ kẽm và đồng trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân
Mục tiêu: Xác định sự thay đổi nồng độ kẽm, đồng trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân so với người khỏe mạnh. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang, tiến cứu, 36 bệnh nhân được chẩn đoán vảy nến đỏ da (nhóm nghiên cứu) tại Bệnh viện Da liễu Trung ương và 32 người khỏe mạnh (nhóm đối chứng) tương đồng về tuổi và giới với nhóm nghiên cứu. Nồng độ kẽm và đồng được đo bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử tại Bệnh viện 69 - Bộ Quốc phòng. Kết quả: Có sự giảm rõ rệt nồng độ kẽm trung bình trong huyết thanh vảy nến đỏ da toàn thân (0,617 ± 0,112mg/l) so với nhóm đối chứng (0,847 ± 0,148mg/l) với p<0,001 và ngược lại có tăng nồng độ đồng huyết thanh trung bình (1,246 ± 0,274mg/l) của bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân so với nhóm đối chứng (1,1 ± 0,32mg/l) với p<0,05. Không có sự liên quan giữa nồng độ kẽm và đồng với tuổi đời và giới tính. Kết luận: Có sự giảm nồng độ kẽm và tăng nồng độ đồng trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân.
#Kẽm huyết thanh #đồng huyết thanh #vảy nến đỏ da toàn thân
Nghiên cứu nồng độ kháng nguyên CA125 ở bệnh nhân ung thư bạch cầu
Kháng nguyên ung thư 125 (CA125) được biết đến và sử dụng với vai trò là một biomarker trong chẩn đoán một số bệnh ung thư. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá mức độ biểu hiện CA125 ở những bệnh nhân mắc ung thư bạch cầu tại Việt Nam. 103 bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư bạch cầu chưa được điều trị và 48 người khỏe mạnh đã tham gia nghiên cứu. Nồng độ của protein CA125 trong máu được phát hiện và định lượng bằng phương pháp ELISA. Kết quả cho thấy, những bệnh nhân bạch cầu lympho cấp có nồng độ CA125 tăng cao và có sự khác biệt với những người khỏe mạnh (p<0,05). Nồng độ CA125 không có sự khác biệt ở những bệnh nhân bạch cầu lympho mạn tính, bạch cầu tủy cấp với những người khỏe mạnh (p>0,05). Những bệnh nhân bạch cầu tủy mạn có nồng độ CA125 thấp hơn so với người khỏe mạnh (p=0,05). CA125 có thể là một marker tiềm năng đối với bệnh bạch cầu lympho cấp.
#bạch cầu lympho cấp #bạch cầu lympho mạn #bạch cầu tủy cấp #bạch cầu tủy mạn #CA125
Khía Cạnh Nông Học Của Việc Tăng Cường Kẽm Trong Lúa (Oryza sativa L.) Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences, India Section B: Biological Sciences - Tập 84 - Trang 613-623 - 2014
Trên toàn cầu, có 2,7 tỷ người mắc thiếu hụt kẽm (ZnD) và 1/3 dân số thế giới sống ở các quốc gia nghèo đang có nguy cơ cao đối với tình trạng thiếu hụt này. Số lượng tử vong do thiếu hụt kẽm đáng kinh ngạc xảy ra chỉ riêng ở Nam Á. Mặc dù nguyên nhân của tình trạng suy dinh dưỡng rất nhiều và phức tạp, một trong số đó là hệ thống thực phẩm không hiệu quả phụ thuộc vào nông nghiệp. Gạo là thực phẩm chủ yếu cho 1/2-2/3 dân số thế giới và chủ yếu (90%) được trồng ở Nam, Đông Nam và Đông Á. Gần 50% đất đai của Ấn Độ chứa mức kẽm không đủ và tình trạng thiếu hụt kẽm trong hệ thống lúa-wheat ảnh hưởng đến 50% sản lượng gạo, đặc biệt là được trồng trong điều kiện đất thấp. Để giải quyết vấn đề thiếu hụt kẽm trong gạo, có thể thử nghiệm nhiều phương pháp nông học tăng cường kẽm, tức là chọn giống, tỷ lệ và thời gian bón phân kẽm, luân canh cây trồng và sử dụng vi sinh vật trong đất. Việc tăng cường kẽm nông học là một phương pháp hứa hẹn và tiết kiệm chi phí để tăng nồng độ kẽm trong hạt gạo. Do đó, nó có thể cứu sống hàng triệu người ở châu Á, đặc biệt là ở Ấn Độ. Bài báo hiện tại là một cố gắng khiêm tốn để phân tích tính khả thi của việc tăng cường sinh học kẽm trong hạt gạo như một công cụ ngắn hạn và có lợi để thúc đẩy nồng độ kẽm, điều này sẽ chữa trị cho nhiều rủi ro sức khỏe thường thấy ở con người ở các nước đang phát triển.
#thiếu hụt kẽm; tăng cường kẽm; nông nghiệp; lúa; sức khỏe cộng đồng
Đánh giá nồng độ kẽm huyết thanh ở bệnh nhân viêm loét miệng tái phát (RAS) Dịch bởi AI
BMC Oral Health - Tập 17 - Trang 1-7 - 2017
Viêm loét miệng tái phát (RAS) là một bệnh lý loét của niêm mạc miệng mà chưa xác định được nguyên nhân rõ ràng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá nồng độ kẽm huyết thanh ở bệnh nhân bị RAS so với nhóm đối chứng khỏe mạnh và xác thực mối liên hệ giữa nồng độ kẽm và diễn tiến của RAS. Bảy mươi lăm bệnh nhân bị RAS và 72 người đối chứng đã được thực hiện khám răng toàn diện. Nồng độ kẽm huyết thanh được xác định bằng quang phổ hấp thụ nguyên tử nhờ ngọn lửa (F AAS). Kết quả được phân tích thống kê bằng các phép thử Kruskal-Wallis, Mann-Whitney, chi-square và thử nghiệm sự khác biệt giữa hai tỷ lệ cấu trúc với mức ý nghĩa p < 0.05 (Statistica 10, StatSoft®). Không có sự khác biệt đáng kể nào được phát hiện về nồng độ kẽm huyết thanh giữa bệnh nhân RAS và nhóm đối chứng khỏe mạnh. Nồng độ kẽm huyết thanh trung bình được phát hiện là 84.2 μg/dL trong nhóm RAS và 83.9 μg/dL trong nhóm đối chứng, không vượt quá giới hạn bình thường. Thiếu hụt kẽm được quan sát thấy ở 10.7% bệnh nhân trong nhóm RAS và 6.9% trong nhóm đối chứng. Không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ kẽm huyết thanh giữa các bệnh nhân khi xem xét diễn tiến của bệnh. Nồng độ kẽm huyết thanh không khác biệt đáng kể giữa bệnh nhân RAS và đối chứng khỏe mạnh và không ảnh hưởng đến diễn tiến của bệnh. Do đó, kẽm dường như không phải là yếu tố điều chỉnh quan trọng trong sự phát triển của RAS.
#viêm loét miệng tái phát #nồng độ kẽm huyết thanh #bệnh nhân #đối chứng khỏe mạnh #phân tích thống kê
Thay đổi nồng độ các nguyên tố vi lượng trong huyết thanh trước và sau phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp Dịch bởi AI
Biological Trace Element Research - Tập 175 - Trang 57-64 - 2016
Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích khảo sát sự thay đổi nồng độ các nguyên tố vi lượng trong huyết thanh trước và sau phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp. Nghiên cứu đã ghi nhận 50 cá nhân, trong đó có 25 nữ và 25 nam. Các bệnh nhân được phân thành bốn nhóm: nhóm 1: nhóm bệnh nhân ung thư tuyến giáp nam (n = 15), nhóm 2: nhóm bệnh nhân ung thư tuyến giáp nữ (n = 15), nhóm 3: nhóm đối chứng nam (n = 10), nhóm 4: nhóm đối chứng nữ (n = 10). Các đối tượng trong nhóm 1 và nhóm 2 là những bệnh nhân đã được chẩn đoán sau phẫu thuật có khối u ác tính trong mẫu mô tuyến giáp. Mẫu máu được thu thập từ tất cả các đối tượng trước phẫu thuật, ngay sau phẫu thuật, và vào ngày sau phẫu thuật thứ 15. Ngoài ra, mẫu mô tuyến giáp được lấy từ tất cả các đối tượng sau phẫu thuật. Một số nguyên tố trong mẫu máu và mẫu mô đã được xác định bằng phương pháp phát xạ nguyên tử. Nồng độ kẽm và selen ở các nhóm 1 và 2 trong các lần đo trước và sau phẫu thuật thấp hơn đáng kể so với các nhóm đối chứng (p < 0.05), nhưng lại cao hơn trong mô tuyến giáp (p < 0.05). Nồng độ kẽm và selen trong huyết thanh đo được ở các đối tượng vào ngày sau phẫu thuật thứ 15 tương tự như những gì đo được ở các đối chứng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng sự thay đổi trong nồng độ huyết thanh và mô tuyến giáp của các nguyên tố vi lượng như kẽm và selen, đóng vai trò quan trọng trong chức năng tuyến giáp, có thể liên quan đến cơ chế bệnh sinh của ung thư tuyến giáp.
#nguyên tố vi lượng #ung thư tuyến giáp #nồng độ huyết thanh #kẽm #selen #chức năng tuyến giáp.
Tổng số: 25   
  • 1
  • 2
  • 3